Friday, June 11, 2010

Đáp án ôn tập Môn triết học (saigonact) K042QL2

 
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Tải tài liệu về ở đây (bản .doc) nhớ kiển tra lại trước khi in

Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của nền sản xuất hang hoá? Trình bày những giải pháp chủ yếu để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay? Gợi ý: Có 2 điều kiện trong (Học thuyết giá trị)
            *Điều kiện ra đời (phân tích): Trong lịch sử phát triển của của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế đó là tự cung tự cấp (là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động lamg ra là nhằm để thoả mãn nhu cầu của người sản xuất) và sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. Đây là kiể tổ chức kinh tế tiến bộ mà sự ra đời của nó đã làm thay đổi lịch sử phát triển xã hội loài người (xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế). Và sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:
*1.Sự phân công lao động xã hội: (là sự phân chia lao động xã hội  một cách tự phát thành các ngành nghề khác nhau. Nó tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất. Do vậy mỗi nhười sản xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì thế hị chỉ tạo ra một hoặc một vài sản phẩm nhất định. song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều sản phẩm khấc nhau.Và để nhằm thoả mãn nhu cầu đó họ phải trao đổ sản phảm cho nhau.). Có thể nói phân công lao động xã hội là là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá. C.Mác chỉ rõ: “Sự phân công lao động xã hội này là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá,mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hoá không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội” (tuy vậy điều kiện này là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại.)
*2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: Sự tách biệt này là do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất (người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động) đã và làm cho người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại lằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lấn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi đưới hình thái hàng hoá. C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là hàng hoá”(nhưng đây cũng chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ,và điều kiện đủ ở đây là phải có đủ cả hai điều kiện trên thì sản xuất hàng hoá mới ra đời và tồn tại.)
            *Đặc trưng, ưu thế của nền sản xuất hàng hoá(phân tích): So với sản xuất tự cung tự cấp có đặc trưng và ưu thế sau:
            Thứ nhất: Do mục đích sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn chu cầu của bản thân mà là để thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trương. Và sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
            Thứ hai: Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc họ phải năng động trong sản xuất – kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuộn ngày càng nhiều hơn. Sự cạnh tranh đẫ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.  
            Thứ ba: Sự phát triển của sản xuất  xã hội với tính “mở”,các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
→ Tuy vậy nó cũng có những mặt trái như: Phân hoá giàu – nghèo giữ những người sản xuất hàng hoá, tiền ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái...
            *Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế hàng hoá nhều thành phần ở nước ta hiện nay: Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động của toàn thể nhân dân. 
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội"1. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. 
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. 
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tham khảo them:
Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày nội dung và những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của giai cấp công nhân?
*Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khái niệm (giai cấp công nhân): “GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”
→ Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:
            Lật đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn.
            Sứ mệnh lịch sử đó do địa vị lịch sử khách quan (đặc biệt là địa vị kinh tế - xã hội) của giai cấp đó quy định.
            Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng GCCN, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. (Mác: GCCN là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.)
            *Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
            -Một cách tổng quát: Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan của GCCN quy định:
            +Trong chủ nghĩa tư bản GCCN gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, cho nên là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
            +Sau khi giành được chính quyền GCCN đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, cho nên, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
            -Một cách cụ thể:
+Về kinh tế: GCCN là con đẻ của nền sản xuất hiện đại.
+Do điều kiện làm việc, điều kiện sống của GCCN đã tạo điều kiện cho họ có thể đoàn kết chặt chẽ với nhau vì họ thường sống ở nhuãng thành phố lớn  và khu công nghiệp tập trung.
+Về xã hội: GCCN trong chủ nghĩa tư bản bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột, điều đó đã tạo khả năng cho GCCN đoàn kết các giai cấp khác và đi đầu trong các cuộc đấu tranh.
+Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của GCCN và do đó, tạo khả năng để GCCN hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích nội dung và tác dụng của quy luật giá trị? Ý nghĩa của quy luật giá trị đối với nướ ta hiện nay? Gợi ý: có trong bài Học thuyết giá trị.
a, Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị
* Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, nó quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: tức là giá cả bằng giá trị.
Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
* Tác dụng của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động sau đây:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống. 
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo
Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
b) Ý nghĩa thực tiễn 
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luạt gía trị trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
  QuocVinh

No comments:

Post a Comment

Girls Generation - Korean