Friday, December 30, 2011

Theme Blogger đa năng


Hôm nay tôi giới thiệu cho các bạn một mẫu "versatile" từ rất nhiều các mẫu mà bạn có thể tìm thấy nó là một mẫu rất linh hoạt vì hai lý do, lần đầu tiên, là bạn có thể dễ dàng thích ứng với nhiều vấn đề, ​​nhưng là để dành cho blog cung cấp tải hoặc triển lãm cái gì đó, và thứ hai là hầu như tất cả các mẫu có thể được tùy chỉnh từ thiết kế mẫu , nhờ vào khả năng tuyệt vời của Blogger mẫu sử dụng các biến;) cũng tương thích với tất cả các trình duyệt bao gồm cả phiên bản cũ IE, "Internet Explorer 6"

Các tính năng :
  • Ba cột mẫu
  • Trình đơn thả xuống trong tiêu đề
  • Infinite băng chuyền hình ảnh
  • Mục trong tiêu đề để đặt quảng cáo 468x60 pixel Banner
  • Phòng đặc biệt cho việc đặt banner quảng cáo 125x125 pixels
  • Tự động tổng kết tại lối vào
  • Nút chính thức Twitter, Facebook và Google + để chia sẻ bài viết của bạn
  • Di chuột hiệu quả của bóng tối trong hình ảnh của các mục (không có IE8 vesion trước)
  • Đặc biệt phần để hiển thị hai luân phiên các tiện ích (trong bản demo: mới + Lưu trữ)
  • Đặc biệt phần để hiển thị tiện ích thư viện thu nhỏ "được ưa thích bài viết"
  • Ba thêm cột trong Footer

Thursday, December 29, 2011

Đà Nẵng bình dân ẩm thực ký

Tôi chỉ muốn chia sẻ cùng các bạn đọc những quán cực quê mùa nhưng cực ngon và cực rẻ để du khách nếu có dịp thử đến một lần xem sao.

Đà Nẵng đã và đang được biết đến như một thành phố du lịch của cả nước. Có được lợi thế ấy phần lớn là nhờ ưu đãi của thiên nhiên. Đà Nẵng hấp dẫn du khách bởi sự đan xen núi, biển, sông, hồ,du lich campuchia đồng ruộng với phố phường tấp nập (“núi trong lòng thành phố, phố trong lòng biển khơi” – lời bài hát Đà Nẵng tình người).

Du khách đến Đà Nẵng mà nói về ở là chuyện nhỏ (như gan thỏ!). Đà Nẵng không chỉ tiếp các khách VIP mà còn chào đón những vị khách bình dân nhất. Bên cạnh những khách sạn, resort 5 sao hoa lệ là những nhà nghỉ, nhà trọ cách trung tâm thành phố chưa đến 5km với giá chỉ 40.000 đồng/phòng cho một đêm tá túc.

Bởi vậy, việc ở đối với Đà Nẵng không là vấn đề. Tuy nhiên, ở rẻ rồi thì phải ăn gì “cho xứng” với ở. Với niềm tự hào là người Đà thành, tác giả xin được dẫn du khách đi “ăn” một vòng quanh thành phố.

Nói đến ẩm thực, người ta thường hay nói đến những nơi tiếng tăm như cố đô Huế hay Kinh đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Ở đó các đầu bếp được biết đến như là các nghệ nhân và những người thưởng lãm cũng là những khán thính giả “khó tính nhất”. Còn ở Đà Nẵng người ta ít quan tâm đến “ăn” nhưng không phải Đà Nẵng không có những nghệ nhân và khán thính giả “VIP” của… bếp núc.

Rảo một vòng quanh thành phố ta có thể cảm nhận được khá nhiều quán ăn, nhà hàng với những đặc sản. Những nhà hàng, quán ăn sang trọng như Bánh tráng thị heo Trần, Bánh tráng thịt heo Năm Mậu, Hải sản Bà Thôi, Cháo lòng Bà Thế, Thịt dê Thuận… đã có trong danh mục du lịch Đà Nẵng thì tôi miễn bàn ở đây. Tôi chỉ muốn chia sẻ cùng các bạn đọc những quán cực quê mùa nhưng cực ngon và cực rẻ để du khách nếu có dịp thử đến một lần xem sao.

Khoảng tầm giữa buổi, các bạn gái thường hay đến quán Tâm (291 Nguyễn Chí Thanh). Ở đó có bánh cuốn,du lich phu quoc bánh nậm, bánh bột lọc thơm lựng. Những chiếc bàn nho nhỏ ngồi chen chúc. Bánh được nấu nướng, chế biến tại chỗ trong không gian ấm mùi khói bếp. Các tiếp viên là những thanh thiếu niên nhanh nhẹn và vui tính. Đặc biệt, mỗi món có một loại nước chấm do quán tự pha chế cực kỳ hợp vị, vừa mang ra chưa đến bàn là đã thấy cồn cào trong bụng ngay. Hôm nào đi làm về trễ, nếu muốn lấy điểm với bà xã thì các đấng mày râu nên ghé lại đây mua vài món đem về. Đảm bảo khó có bà xã nào chê được.

Các bợm nhậu khi có “vài ve”, tan tiệc thì lại thích đến quán bún Hương (229 Đống Đa) hoặc bún Thuỷ (218/4 Đống Đa). Quán Hương thì rộng hơn nhưng Quán Thuỷ thì hơi chật. Hơn 90% khách đến đây chỉ thích ngồi ngoài đường để ăn. Quán chỉ che lều bạt. Nếu lúc vắng khách thì không ai biết đây là quán bún cỡ “xịn” tại Đà Nẵng. Quán đông từ 4h chiều đến tận khuya.

Tôi thích nhất là được ăn một tô bún xương ở đây. Xương được nấu đủ để thực khách thấy mình không nên bỏ sót một chút thịt nào còn dính trên xương. Thực khách rút từng thớ thịt thơm ngát chấm với loại nước mắm nguyên chất được chiết từ cá mờm Nam Ô mới thấy giá trị của vị ngon. Nhóm bạn của tôi khi nhậu ngà ngà khoảng về khuya là hay đến đó xơi mỗi cậu một tô trước khi về.

Nhưng độc đáo phải kể đến quán lẩu bò tại 38 Lê Hồng Phong. Quán rộng chỉ độ hơn 20 mét vuông. Đa số tận dụng vỉa hè để cơi nới thêm không gian. Đúng 4h chiều quán mới bán (nếu khách đến sớm hơn thì xin mời… ngồi chờ). Quán chật chội, nhiều khi là nóng nực ấy thế mà các thực khách vẫn vào ra nườm nượp. Trong số đó có cả các người đẹp đi theo nhóm hoặc đi cùng bạn trai nữa. Cái độc đáo của quán là bán đúng giờ và ăn vừa bụng. Nếu thực khách gọi nhiều quá là chủ quán “nhắc” ngay: “Ăn thế đủ rồi, đừng gọi nữa, phí”. Ở đây bán các món bò, nào là lẫu bò, phá lấu, bó nướng, bò rôti, bò quấn lá cải… Giá cả rẻ cực sốc, cỡ 4-5 người vào thì phiếu tính tiền chỉ khoảng dưới 200-250 ngàn đồng là ăn… mệt nghỉ.

Sáng mai thức dậy, nếu các bợm nhậu hay ai đó do lao lực mệt mỏi, cảm thấy người uể oải, chán ăn thì xin mời hãy đến quán cháo lòng vỉa hè tại 34 Trần Quốc Toản. Quán này nhiều khi thực khách đến có thể chờ năm,du lich nha trang mười phút, mắt liên tục nhìn quanh để chờ người khác đứng dậy mới có cơ hội tìm được chỗ ngồi. Bát cháo lòng nóng hổi, những lát lòng được luộc tươi màu, bóng bẩy, thơm phức, trang điểm nhẹ bằng những cọng hành hay mớ lá ngò hương, rắc thêm một ít bột tiêu Tiên Phước sẽ gây sóng gió cho tuyến nước bọt của bạn và hẳn bạn sẽ quên đi trạng thái chán ăn ngay lập tức.

Xa xa một chút phía nam thành phố, trên đường về Hội An, du khách có thể vui lòng rẽ vào 2km đường làng Đông Trà, phường Hoà Hải, Ngũ Hành Sơn để thưởng thức những món nhà quê chính hiệu của Quán Gió Đồng. Quán này không có tủ lạnh và cũng không bao giờ làm trước thức ăn. Khách đến có vội có vàng gì đi nữa thì cũng bình tĩnh xuống nhà bếp chỉ trỏ món mình thích rồi chủ quán mới làm. Điều làm cho thực khách thích thú là đang ngồi nhậu nhưng thỉnh thoảng lại có bác nông dân, vai vác cuốc, chân còn lấm bùn, tay cầm con gà nước, con vịt trời hay bưng rổ ốc bưu vừa bắt được trên đồng đến bán cho quán. Quán lợp lá dừa, vách tre, nằm sát dòng kênh nước trong veo bên cánh đồng lúa mênh mông. Không hề có quạt nhưng gió trời làm mát cả ngày. Trong khi chờ mồi lên mâm, khách có thể ngã lưng trên chiếc võng đung đưa để tận hưởng cái hồn quê tha thiết làm sao.

Thật tiếc cho những thực khách nào chưa nhận ra quán Nhu với tiết canh vịt xiêm (ngan) và thịt thỏ ngon hết chê tại bán đảo Sơn Trà (đường Yết Kiêu). Khách vào quán cứ tưởng như mình là một thượng khách đang đi công cán qua vùng sơn cước. Vừa bước vào là chủ quán niềm nở đón rước, rót trà mời thân mật. Tuỳ khách, ngồi trên bàn gỗ, trên sạp tre hay có thể chọn cho mình một chiếc giường đá khoảng mươi mét vuông có bóng cây che mát rượi để ngồi nhâm nhi vài li rượu với tiết canh ngan ngon khó tả. Món thịt thỏ ở đây cũng ít nơi nào có được. Thỏ rôti, thỏ nấu măng hay kho tộ đều  thơm lựng, ngon tất. Quán trước kia là trang trại của một sỹ quan nay đã về hưu nhưng đầy không khí trẻ trung văn nghệ sỹ. Nếu khách có nhu cầu ca hát là lập tức được đáp ứng ngay bằng một cây ghi ta hay sáo trúc. Và nhạc công nếu cần thì có thể là chủ quán.

Không còn thú vị nào hơn được ngồi trên một tảng đá to,du lich thai lan bằng phẳng, dưới bóng cây gió bầu râm mát, nghe những điệu nhạc du dương. Bên dưới là dòng suối chảy róc rách, mấy con cá cấn bơi lội tung tăng.

Tuyệt tác kiến trúc xứ Kinh Bắc

Trong tiềm thức của người Việt, khi nói về một ngôi làng thì không thể nhắc đến ngôi đình của làng đó, bởi công trình này là sự kết tinh trí tuệ, công sức và thể diện của người dân cả làng. Có thể nói ngôi đình chính là biểu tượng thiêng liêng của một ngôi làng. 

Ngôi đình càng to, đẹp thì người dân trong làng lại càng tự hào. Nói về sự hoành tráng của những ngôi đình, người xưa có câu: “Thứ nhất là đình Đông Khang/Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm”.
Ngày nay, Đình Đông khang đã không còn do chiến tranh tàn phá, đình Diềm cũng đã biến đổi nhiều,du lich nha trang không còn bề thế như xưa. Chỉ còn Đình Bảng vẫn giữ được nguyên vẹn quy mô kiến trúc của mình. Giới kiến trúc cũng đánh giá đây là ngôi đình đẹp nhất của người Việt còn tồn tại cho đến nay.

Cách Hà Nội 20km về phía Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Bảng) thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010).

Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam.

Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng, ngôi đình có thế trường tồn (Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng cho dựng thử trước khi cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo tồn).

Đình Bảng là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt),du lich ha long đây là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân cũng thờ Lục Tổ (6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV. Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình Đình Bảng.

Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước.

Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình).

Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức.

Khi bước vào lòng đình, quý khách được đón chào và bị cuốn hút bởi tất cả sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII. Sự cuốn hút đầu tiên với mọi du khách là bức cửa Võng lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài. Bức Võng phủ kín một diện rộng,du lich phu quoc kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và mở ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh, tứ quí.... phía trên bức cửa Võng là bức trần gỗ che kín mái gian giữa với hình trang trí là một con chim Phượng xoè rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó.

Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ".

Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều.

Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân dân cả nước:

"Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Báng, vẻ vang đình Diềm"

Đình Đông Khang ngày nay không còn, cái mà hôm nay ta còn được chiêm ngưỡng lại là Đình làng Đình Bảng. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá hơn là đình Đình Bảng cho du khách một cái nhìn trọn vẹn của kiến trúc đình làng được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, du lich campuchia trong khi các ngôi đình khác không còn giữ được dáng vẻ nguyên vẹn nữa.

Wednesday, December 28, 2011

Lợn “cắp nách” đặc sản của Lai Châu

Cái tên lợn “cắp nách” (một số nơi gọi là lợn lửng) là loại lợn đặc sản chỉ có ở vùng cao và nhiều nhất ở Lai Châu. Mỗi con chừng 10-15kg, con nào to cũng chỉ khoảng 20kg. Ăn thịt lợn “cắp nách” chẳng khác nào ăn thịt thú rừng mà không phạm pháp, bởi vì loài lợn này được thả vào trong rừng từ khi mới đẻ, tự kiếm ăn để sống.

Lợn “cắp nách” được ra đời từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của bà con các dân tộc vùng cao như: Dao, Thái, Mông… Đây thực chất là giống lợn đặc trưng truyền thống chuyên thả rông chẳng phải nuôi dưỡng của đồng bào. Muốn có một đàn lợn “cắp nách” thì chỉ cần mua một đôi, gồm một con đực và một con cái, du lich nha trang sau đó thả chúng vào khu rừng gần nhà mình. Đôi lợn đó sẽ luôn đi bên nhau, làm ổ trong rừng, tự kiếm ăn. Đến mùa sinh sản thì chúng giao phối và đẻ ra cả đàn lợn hàng chục con chỉ to hơn ngón chân cái.

< Lợn lửng.

Loài lợn này có sức chịu đựng rất giỏi, chúng tìm củ, rễ cây rừng nhai lá cây là có thể sống được. Lợn mới đẻ có thể chạy nhảy và kiếm ăn ngay được, chúng chỉ theo bố mẹ vài ngày rồi tự tách ra.

Cả lũ lợn con đi kiếm ăn thành đàn đến khi nào trưởng thành,du lich thai lan có thể sinh sản mới tự tách ra. Điều đặc biệt là loài lợn này tuy tự kiếm sống ở trong rừng, song chúng không bao giờ đi xa, chỉ quanh quẩn ở một khoảng cách nhất định.

< Dẫn "hàng hóa" ra chợ phiên.

Có hộ thì tạo thói quen cho chúng tự về ổ do ông bà chủ làm sẵn ngay đằng sau nhà hay dưới gầm sàn. Còn những đàn lợn “ở ẩn” trong rừng thì chúng đã đánh dấu lãnh địa của mình. Muốn xem đàn lợn đã lớn chưa, người ta chỉ việc vào rừng tìm chúng hoặc ban đêm lần vào ổ của chúng để xem. Ổ được làm bằng những cành cây, lá cây khô.

Muốn bắt chúng cũng rất dễ, người ta có những tiếng kêu đặc trưng để dụ chúng đến rồi bắt. Anh Giàng A Páo, người Mông ở xã Lản Nhì Thàng (Tam Đường-Lai Châu) tâm sự: “Tao lấy gai bồ kết rạch cho xước da chúng ra rồi sát muối vào người chúng từ lúc bé, thỉnh thoảng lại bắt chúng ăn muối, chúng sẽ không bao giờ đi xa đâu”. Chính vì không được nuôi dưỡng nên lợn lửng thuộc loại siêu chậm lớn, mỗi năm chúng chỉ tăng tối đa là 10kg, sau đó hầu như không tăng nữa.

< Lợn lửng bán ngoài chợ.

Chính vì ăn cỏ cây, lại chậm lớn nên thịt chúng rất thơm ngon, hầu như không có mỡ,du lich ha long miếng nào có một tý mỡ thì cũng không ngấy. Có nhiều cách chế biến lợn cắp nách thành đặc sản như tiết canh, luộc, hấp, nướng, hun khói, xào…

Hiện nay ở Lai Châu và đặc biệt ở thị xã Lai Châu xuất hiện rất nhiều quán đặc sản lợn cắp nách. Khách từ miền xuôi cũng đã lặn lội về đây để mong được thưởng thức loại “thịt rừng nhân tạo” tấm tắc khen ngon.

Anh Đ.V.T, chủ một quán thịt lợn cắp nách ở thị xã Lai Châu đã khá thành công nhờ kinh doanh món đặc sản lợn cắp nách. Anh cho hay, quán của anh mỗi ngày phục vụ vài trăm “thượng đế” từ khắp nơi đổ đến. Trong nhà anh lúc nào cũng phải có cả trăm con sẵn sàng đưa lên đĩa.

Để đáp ứng được khách hàng anh phải có một đội quân chuyên về các vùng heo hút để tìm mua lợn cắp nách. Ngoài việc thu mua để cung cấp cho nhà hàng, anh còn thu mua để đổ cho các đầu nậu ở các nơi khác.

< Các chú ụt trông khá ngộ nghĩnh.

Mấy năm trước, khi chưa thành lập thị xã Lai Châu thì quán ăn đặc sản còn lẻ tẻ, nay thì mọc tràn lan như nấm. Các quán đặc sản lợn cắp nách tràn cả về miền xuôi, nhất là ở Hà Nội cũng đã có vài nơi kinh doanh. Giờ đây ở Lai Châu, lợn cắp nách đã trở thành món ăn trong các đám cưới, tiệc liên hoan… Thịt lợn cắp nách quả là món ăn hấp dẫn du khách.

Theo như các tay chuyên săn lợn thì ở các xã vùng cao,du lich phu quoc vùng xa như Dào San, Bản Lang, Nậm Xe, Thèo Sin, San Thàng, Nậm Mạ…. có nhiều lợn cắp nách. Lợn ở đó nuôi hoàn toàn theo kiểu hoang dã nên rất ngon. Chúng thuộc loại “siêu chậm lớn” nhưng có thể đem lại “siêu lợi nhuận”. Giá một kg lợn hơi tận nơi thu mua là 20.000 đồng/kg, ra đến thị xã cũng khoảng 25.000-30.000 đồng/kg, tuỳ chất lượng. Về đến Hà Nội thì giá đã...lên trời.

Lần theo kho báu giữa rừng Xuân Sơn

Cách Hà Nội khoảng 120km, hành trình đến rừng Xuân Sơn thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay rất dễ dàng, nếu có chút mạo hiểm với những phút giây trải nghiệm cùng vẻ hoang sơ của cung đường, của núi rừng, có thể dùng phương tiện xe máy để đi về trong ngày nếu khởi hành từ Hà Nội. Từ Hà Nội lên Sơn Tây, theo quốc lộ 32 để đến địa phận Thanh Sơn sẽ đến lối rẽ vào vườn quốc gia Xuân Sơn.

^ Bản Cỏi của người Dao, người Mường.

Rừng Xuân Sơn là quê hương của gà chín cựa, là đất sống của chuối cô đơn, có cánh rừng chò chỉ đẹp nhất nhì Tây Bắc, có hệ thống hang động đá vôi đầy bí ẩn,du lich campuchia… Những lý do đó đã hấp dẫn tôi tìm về cánh rừng Xuân Sơn để khám phá những nét độc đáo ấy.

Với diện tích hơn 15.000 ha, Xuân Sơn là rừng quốc gia hiếm hoi có rừng nguyên sinh tồn tại trên rặng núi đá vôi, nằm ở đoạn cuối của dãy Hoàng Liên Sơn trên địa phận tỉnh Phú Thọ. Được thiên nhiên ban tặng cho một địa thế độc đáo, có thể gọi Xuân Sơn như một kho báu giữa trời. Là một điểm đến đầy hấp dẫn gắn liền với những câu chuyện truyền thuyết, lịch sử, những giống loài động thực vật quý hiếm cùng đời sống văn hoá đặc sắc của cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa.

Khung cảnh các bản làng yên bình

Đường vào rừng Xuân Sơn quanh co đèo dốc, cũng có những cổng trời với khung cảnh đầy nguyên sơ, rất ít người qua lại và còn khá lạ trong bản đồ của khách du lịch thông thường. Khác với những vườn quốc gia khác, Xuân Sơn có con đường trải nhựa nối đến giữa rừng, thuộc địa phận bản Cỏi, một bản nhỏ của người Dao nằm ven suối, bao phủ quanh bởi rặng núi đá vôi, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, đẹp mắt.


< Gà chín cựa ở núi rừng Xuân Sơn.

Trước khi đến bản Cỏi có một trạm kiểm lâm, muốn được vào rừng du khách phải trình báo, và cũng để có thêm những kiến thức sơ bộ về Xuân Sơn qua hình ảnh, những hiện vật sưu tầm, và những thông tin mà anh em kiểm lâm cung cấp. Từ trạm kiểm lâm, cứ dong xe chạy đến bản Na, bản Dù, bản Cỏi… mỗi bản làng lại mang một sắc thái, du lich ha long một nét độc đáo riêng của các dân tộc Dao, Mường bản địa.

Bản Cỏi, nơi sinh sống của hơn 100 nóc nhà người Dao từ bao đời qua, là điểm cuối của con đường trải nhựa, nơi đây còn nuôi giống gà chín cựa độc đáo – lễ vật thách cưới của vua Hùng trong câu chuyện truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh khi xưa. Muốn vào được bản phải vượt qua con suối đầy đá cuội, chào đón khách phương xa là nhịp chày đều đặn từ những chiếc cối giã gạo, giã ngô mượn từ sức nước được người bản địa đặt rải rác bên bờ suối, tạo nên khung cảnh thật bình yên, đơn sơ giữa núi rừng. Dòng nước quanh năm mát lạnh ấy lại xuất phát từ một hệ thống hang động đá vôi độc đáo, một báu vật của rừng Xuân Sơn mà tôi mong muốn được một lần chạm mặt.

Hang động kỳ bí giữa rừng

Những người giữ rừng Xuân Sơn ở trạm kiểm lâm cho biết, hệ thống núi đá vôi ở đây có đến bảy hang động, hầu hết chưa có tên gọi cụ thể. Người địa phương lấy luôn tên gọi của các bản làng kế cận, hoặc những đặc tính để đặt tên cho hang như hang Lạng, hang Na, hang Cỏi, hang Dơi, hang Thổ thần… cùng những dòng thác như thác Bạc, thác Ngọc… đã hình thành nên một nét độc đáo và quyến rũ của Xuân Sơn.


< Lối vào hang Cỏi - một hang đẹp và ký bí bậc nhất ở rừng Xuân Sơn.

Khám phá được hết chuỗi hang động của rừng Xuân Sơn thực là một ao ước, bởi mỗi hang lại mang một vẻ đẹp riêng, nếu như hang Dơi như một lỗ hổng giữa lưng chừng núi, muốn đến phải thòng dây từ đỉnh để tiếp cận miệng hang, trong đó là nơi cư trú của hàng triệu con dơi, thì hang Lạng lại như một địa đạo ngầm với vòm trần cao đến 10m, độ dài ước chừng gần chục cây số, là nơi sinh sống của vô số các loài cá đặc sản như cá chép, cá quất, cá măng xanh, cá trê... Động Tiên với vô vàn nhũ đá đầy lung linh huyền ảo…

Trong số hang động kỳ vĩ ấy, hang Cỏi vẫn là một ẩn số lớn bởi ngay cả với những người Dao, Mường bản địa vẫn chưa ai đi hết chiều dài của lòng hang. Với những phương tiện hạn hữu mang theo du lich phu quoc, tôi theo chân những thanh niên bản Cỏi đi sâu vào lòng hang với mục đích khám phá một phần vẻ đẹp của hang động kỳ vĩ này.

Cửa hang như một con quái vật khổng lồ há miệng đen ngòm, lởm chởm các khối đá không theo một trật tự sắp đặt, nằm ngổn ngang như tạo thêm cho đường vào hang thêm phức tạp và khó khăn hơn.

Bước qua miệng hang chưa đầy 20m, dòng sông ngầm đã ngay trước mặt, phả hơi nước mát lạnh. Tôi như đang đứng giữa một toà thiên nhiên đầy bí ẩn, bao quanh là vẻ đẹp của những khối thạch nhũ ngàn năm khi ẩn khi hiện theo ánh đèn pin.

Lần từng bước vào lòng hang, dòng sông ngầm càng sâu và lạnh hơn, chảy êm ả qua các bức tường thạch nhũ. Dưới lòng hang là lớp cát trắng mịn, nước trong vắt dưới ánh đèn, thấy rõ cả những đàn cá tung tăng lội. Có những đoạn nước sâu, vòm hang rộng tối om, vẻ bí ẩn ấy đem lại một cảm giác thật khó tả, pha lẫn chút lo sợ khi trầm mình dưới làn nước lạnh để lặng người nghe từng nhịp rơi của nước từ nhũ đá trên trần xuống mặt nước, vang vọng trong lòng hang.

Cứ mỗi bước khám phá hang Cỏi, lại là những cảm giác đầy lý thú khi được thoả chí tưởng tượng, cảm nhận và trải nghiệm những hấp dẫn của các khối hình thạch nhũ trong hang sâu du lich nha trang, dễ khiến những bước chân lữ hành phải chùn lại, nghiêng mình trước vẻ đẹp mà tạo hoá đã dành tặng cho hệ thống hang động trong núi rừng Xuân Sơn thương yêu.

Monday, December 26, 2011

Về bàu Đưng ăn cá đồng

Bàu Đưng nằm dưới chân núi Sơn Triều, giữa hai thôn Quy Hội và Đại Hội thuộc xã Phước An, huyện Tuy Phước-Bình Định.Bàu có từ lâu đời, rộng trên 120 ha, đa dạng nguồn lợi thủy sinh. Mặt bàu bao la, gần gũi, hiền từ như lòng mẹ đã nuôi sống bao thế hệ dân lành quanh hồ.

Phong phú nguồn lợi

Theo sõng ông Bùi Ngọc Liên, 80 tuổi ở thôn Quy Hội, xã Phước An, huyện Tuy Phước, tôi thật sự bị cuốn hút bởi không gian và sản vật bàu Đưng. Tầng trên mặt nước, lác ba cạnh mọc thành vùng rộng, du lich campuchia đứng thẳng óng. Là đà mặt nước là bông súng trắng nhị vàng xen lẫn những khóm năng suôn mượt. Chuồn chuồn lác đủ màu, lên xuống bắt nước. Ong, bướm lượn lờ trên những đám rau dậy nở hoa trắng muốt. Tầng dưới mặt nước là rong đuôi chồn kết thành tấm dày, rướn thân vươn lên như những đụn san hô biển.

< Xúc cua bàu.

Đang mùa cá sặc làm tổ, mặt bàu buổi sớm luôn xao động. Ông Liên cho biết: “Lác và năng bàu Đưng là nguồn rác tủ hành, sắn nước, rau màu, dưa, kiệu rất tốt. Người dân Quy Hội nhờ nguồn lợi này mà bao đời trồng la ghim không tốn rơm, bạt tủ. Rau dậy và rong là nguồn thức ăn dặm cho heo, vịt. Dân quanh bàu tận dụng nguồn này thay cám để chăn nuôi. Lúa cỏ, lác non ở đây là nguồn thức ăn dồi dào để người dân phát triển đàn trâu, bò. Bèo lục bình là nguồn phân xanh hữu ích cho việc cải tạo đất gò. Cọng bông súng luộc chấm nước mắm ngon hay làm gỏi đậu phụng là món ăn ngon miệng sau những buổi làm đồng mệt nhọc của người dân quanh bàu!”.

Bồng bềnh trên những khoảng trống mặt bàu, thấy nhiều vùng nước nổi tăm, điểm sóng, tôi đăm chiêu. Ông Liên giải thích: “Đó là cá đớp móng. Bàu này nhiều cá lắm! Đủ các loài cá nước ngọt nhưng nhiều nhất vẫn là cá sặc và cá sóc lát (có nơi gọi cá thác lát). Quý nhất vẫn là chình bông và rùa nước nhưng đã hiếm. Cá, tôm, cua, ốc, lươn, chình bàu này rất ngọt, thơm khi nấu, không giống bất kỳ mùi vị thủy sản vùng nào khác. Món ngon mang hương vị riêng của bàu là món rồng rồng nấu canh lá dang với bông súng!”.

< Giăng, xúc trên bàu Đưng.

Sõng xuyên qua một vùng lác thưa xào xạc. Nghe tiếng động, mấy chú chim to như gà choai, đen mượt, từ mặt nước bay lên phành phạch. Đâu đó trên bàu the thé tiếng chim đàn. Ông Liên nhanh miệng: “Đó là chim trích. Còn tiếng kêu đằng kia là chim le le. Chúng sống thành bầy năm, sáu mươi con. Bàu này vốn nhiều chim và động vật nước. Trước đây có cả mười mấy loài như: trích, le le, cò lép, cò trắng, cò lọ nồi, cò xám, cúm núm, bói cá, se sẻ tàu, chim dán. Nhiều loài mất đi rất đáng tiếc như chim dồng dộc, gà nước, trăn nước và rái cá!”.

Rong ruổi qua thủy phận Ghềnh Đá và eo đình Đại Hội, tôi gặp nhiều đàn vịt nuôi thả rông mặt bàu, con nào cũng căng diều, sà sệch. Ông Liên dừng sào,du lich da lat chỉ tay về những doi đất đầu các ngọn suối, xanh um màu cây lá, bảo: “Nhờ nước từ bàu này mà nơi ấy đã thành những vùng trồng rau màu bốn mùa tươi tốt!”.

Bắt theo con nước

Long rong nửa ngày trên mặt bàu, tôi bắt gặp nhiều người làm nghề câu lưới. Lân la trò chuyện với anh Trần Văn Rải ở thôn Quy Hội lúc ghìm sõng nghỉ tay. Anh cho biết: “Trước đây, có hơn nửa số dân hai thôn Quy Hội và Đại Hội làm nghề câu lưới, nay 1/3 trong số họ lưu nghề, đi làm xưởng, chỉ còn lại người già và những người trụ cột gia đình. Tuy vậy hiện giờ còn khoảng vài trăm người giăng bắt thường xuyên”.

“Bàu mênh mông thế này, làm sao để bắt được cá?”, tôi hỏi. Anh Rải vui vẻ: “Có nhiều cách bắt lắm! Tùy theo mùa nước mà có cách bắt khác nhau. Riêng câu, lưới, trúm thì mùa nào cũng bắt được. Từ tháng tư đến tháng sáu, bàu hơi cạn, người ta tát đìa, tát vũng, xúc cào, xúc lát.

Tháng bảy, tháng tám, mưa giông đầu mùa, lại đơm cá rô, cá luối, cá lóc, sóc lát lên đẻ. Tháng chín đến tháng mười một, người ta thả chà, đơm cá sặc ổ, thọc tăm, xúc rồng rồng. Tháng chạp đến tháng ba, con nước thường, lại thêm cách bắt bằng lờ bậu, lờ bóng, vớt ốc, xúc cua!”.

Nghe nhiều cách bắt mới lạ, tôi tò mò, muốn biết. Anh Rải lần lượt giải thích: “Chà là bó cây dẻ ốc, chặt từ núi, gánh về thả xuống bàu lúc lũ dâng. Tôm, cua, cá, lươn, chình chui vào trú lũ, ăn nhớt từ chà. Sau khi lũ rút, người thả chà lội bàu, lùa chà vào rổ to vành, vạch, rẽ bó chà, bắt được nhiều loại, nhất là tôm, cua. Cách bắt này phổ biến trong người dân thôn Quy Hội.

Thọc tăm là hình thức đuổi cá lớn bằng đầu sào thọc xuống nước, theo dõi tăm cá chạy, lướt sõng theo, rồi dùng nơm lớn chụp xuống điểm cá dừng có màu nước vợn đục. Cách bắt này đòi hỏi kinh nghiệm và tỏ mắt. Hai thợ tăm nổi tiếng ở bàu này, bắt được nhiều cá chép 4-5 kg, cá lóc 3-4 kg là Năm Rõ và Bốn Tuấn!”.

“Còn đơm cá sặc ổ và xúc rồng rồng là sao?”, tôi hỏi. Anh Rải tiếp tục cho biết: “Cuối tháng mười, lũ rút, cá sặc làm tổ dày chân lác. Người dân chống sõng, chở vài chục lờ và vài mươi cây cờ giấy ra bàu. Họ dồn ba, bốn tổ cá thành một, trọn vẹn trong lờ, cắm cờ làm dấu. Cá sặc chui nhanh vào lờ tiếp tục sú bọt cho tổ. Có lờ vào được cả năm, sáu mươi con. Mùa cá sặc làm tổ, bàu vui như hội. Tiếng gọi bạn vọng xa, lời hỏi, chào, tiếng nói cười rộn rã giữa rừng cờ đơm đủ màu trên mặt nước, thật thích!


< Bắt lươn bằng trúm.

Còn rồng rồng là cá lóc con, sống thành bầy từ năm, sáu trăm đến vài ngàn con. Chúng theo mẹ đi ăn ở những vùng nước rộng, nổi tăm trắng xóa. Chúng lặn, nổi theo chu kỳ nhất định. Người xúc rồng rồng đội rổ nan đan dày to vành, lội nhẹ nhàng về điểm cá ăn. Chờ đến lúc cá vừa nhô lên, ửng đỏ mặt nước, người xúc đạp chân lao tới, ụp rổ, xoay tròn, vừa xoay, vừa giậm, vừa kéo.

Rồng rồng bị dồn một hướng, co cụm vào rổ. Nhiều con thoát được tiếp tục lớn lên thành cá lóc. Kiểu bắt này cũng đòi hỏi quen tay, tinh mắt. Trước đây có ông Hai Sơn, bác Bảy Hảo ở thôn Quy Hội, nay có thêm Bốn Bình, Bốn Tân cùng thôn là những người giỏi bắt kiểu này!”.

Vui, buồn mặt bàu

Thấy anh Rải còn trẻ, khỏe, tôi hỏi anh: “Sao không đi làm xưởng như những người khác?”. Anh tâm sự: “Làm xưởng, thu nhập ổn định nhưng đi cả ngày, nhà cửa không ai lo. Làm câu, lưới, tuy mùa được, mùa ít nhưng chịu khó làm thêm trúm, du lich nha trang lờ thì thu nhập cũng bằng làm xưởng. Làm bàu, tôi tranh thủ đưa đón, trông coi con cái học hành. Tôi mến bàu, quen nước rồi, khó dứt!”. “Bằng làm xưởng là bao nhiêu?”, tôi tò mò.

Anh Rải tiết lộ: “Hầu hết những người làm bàu đều kết hợp nhiều kiểu giăng, buông, xúc, vớt. Ngày đêm họ đi bốn chuyến, ra - vào tám lần: gần sáng, giữa trưa, chiều tối và nửa đêm. Bắt được cá, họ nhốt lại bàu, sáng sớm đưa về bán. Căn cứ số lượng người làm và kết quả họ thu được thì ước tính bàu này, mỗi ngày đêm cho trên 200 kg thủy sản các loại.

Tùy theo con nước và kinh nghiệm nghề nghiệp của từng người mà sản lượng giăng bắt khác nhau. Mùa lũ, người làm bàu bình thường, một ngày đêm thu nhập từ 300 ngàn đến 400 ngàn đồng. Ngày thường, từ 120 ngàn đến 150 ngàn đồng!”.
Nhìn nhiều cụ già buông câu, vài phụ nữ vớt ốc dập dềnh trên nước, tôi không khỏi ngỡ ngàng và động lòng. Anh Rải cho hay:

“Họ là những người cả đời gắn bó với bàu. Cha, ông họ truyền nghề dệt lưới, buông câu lúc họ còn nhỏ xíu. Quanh đây, nhiều nhà có ba, bốn thế hệ làm bàu như gia đình anh Trần Kính, Nguyễn Công Rang, Hai Thì ở thôn Đại Hội, ông Bảy Hảo, anh Hai Luôn ở thôn Quy Hội. Họ bám bàu là vì thói quen, kế mưu sinh và là cách giữ, truyền nghề cho con cháu. Nhiều người trong số họ nuôi dạy con cái thành đạt như anh Kính, anh Rang!”.

< Thơm ngon cá đồng.

“Số lượng người làm bàu nhiều, có khi nào rủi ro hay bắt lén, bắt nhầm của nhau không?”, tôi phân vân. Anh Rải cười: “Tất cả những người ra bàu đều giỏi bơi. Có người bơi từ bờ bàu thôn này sang thôn kia. Người làm trên bàu này chưa có trường hợp chết đuối. Mặc dù không phân chia ranh giới nhưng ai nấy đều có vùng nước riêng để làm, không lấn chiếm, không tranh giành. Ngược lại, họ biết bảo vệ phương tiện, tài sản lẫn nhau!”.

Người làm bàu vui vì luôn đảm bảo giá trị ngày công, giữ được nghề của cha ông; vừa làm bàu vừa lo được chuyện làng, chuyện nhà; nuôi được heo, vịt, con trâu, con bò nhưng nỗi buồn, lo cũng không nhỏ. Anh Rải bùi ngùi tâm sự: “Bàu này, nếu không có nạn rà xung điện thì quý biết mấy. Mặc dù chính quyền xã, thôn áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn nhưng một bộ phận người dân hám lợi trước mắt, quên chuyện lâu dài đã lén lút hoạt động. Bàu rộng, lác dày, du lich teambuilding lực lượng chức năng lại mỏng, rất khó khăn trong việc phát hiện, xử lý. Nếu ai cũng ý thức được rằng: ăn hôm nay phải để ngày mai thì mặt nước bàu Đưng sẽ luôn nhộn tăm, sóng cá đi về!”.


Du Lich Campuchia
Girls Generation - Korean